:::: Charles Dickens ::::
Oliver Twist
Chương 1
Đứa trẻ được sinh ra ở một Trại tế bần và mẹ nó, người mà không ai biết tên là gì, chỉ có đủ thời gian để nhìn nó trước khi nhắm mắt.
Đứa trẻ tội nghiệp gào khóc hết cả hơi. Giá như nó có thể biết được rằng nó chỉ có một mình ở trên đời, rằng nó mồ côi, rằng nó sẽ phải chịu nhiều đau khổ và sẽ bị đối xử tồi tệ, chắc hẳn nó còn gào khóc to hơn nữa.
Đứa trẻ được đặt tên là Oliver Twist. Nó không ở lại lâu trong Trại tế bần mà bị gửi đến nhà một bà già tên là Mann, người thường nhận được một khoản tiền nhỏ cho mỗi đứa trẻ mà bà có trách nhiệm.
Oliver Twist vừa tròn chín tuổi. Đó là một cậu bé xanh xao, gầy gò và nhỏ bé.
Mặc dù phải chịu nhiều thiếu thốn và bị đối xử tồi tệ trong ngôi nhà người ta sắp xếp cho nó, cậu bé vẫn có một tính cách lanh lợi và cương trực.
Hôm đó, em bị nhốt vào hầm than cùng với hai đứa bạn khác, do đã dám liều lĩnh phàn nàn rằng mình đói.
Bỗng nhiên, bà Mann, chủ nhân khu nhà đó, ngạc nhiên bởi sự xuất hiện đột ngột của viên thanh tra Trại tế bần, ông Bumble, đang cố mở cánh cửa của khu vườn.
- Quý hóa quá! Ngài Bumble đấy à? - Bà Mann vừa nói vừa nhoài người ra cửa sổ, vờ tỏ vẻ rất vui mừng. - Nhanh lên, Suzanne, cho ba thằng nhóc ra khỏi hầm than và rửa ráy thật nhanh cho chúng.
Đừng để cho ông Bumble nhìn thấy chúng trong tình trạng thế này. Thưa ngài Bumble, tôi thật lấy làm sung sướng được gặp ngài.
ông Bumble là một người dễ nổi nóng. ông bắt đầu lắc mạnh chốt cửa và đập ầm ầm vào cánh cửa.
Trong thời gian đó, tụi trẻ được đưa ra khỏi hầm than và nhanh chóng rửa ráy sạch sẽ.
- Tôi đây. - Bà Mann nói. - Mời ngài vào, thưa ngài Bumble.
Bà Mann dẫn ngài thanh tra Trại tế bần vào một căn buồng nhỏ lát gạch. Bà ta mang đến cho ngài thanh tra một cái ghế tựa rồi nhanh nhảu cầm mũ và gậy của ông đặt lên bàn. Ngài Bumble lau cái trán lấm tấm mồ hôi. Ngụm rượu bà Mann mời khiến ông hết nhăn nhó..- Bà Mann, bà có cho lũ trẻ ăn cháo không đấy? - ông Bumble hỏi.
- Có, tôi có cho chúng ăn. - Bà ta nói. - Mặc dù cháo cũng đắt đấy. Nhưng tôi không thể nhìn những đứa trẻ thân thương ấy phải khổ sở. Ngài thấy đấy, tôi không thể kìm lòng được.
- Tốt, - ông Bumble nói, - tốt lắm, bà là một phụ nữ trung hậu, bà Mann ạ. Chúng tôi đã làm đúng khi giao những đứa trẻ cho bà. Nhưng tôi đến đây để nói về công chuyện. - Ngài thanh tra vừa nói vừa rút từ túi quần ra một cái ví da nhỏ. - Đứa trẻ được đặt tên thánh là Oliver Twist đến nay đã chín tuổi...
- Một đứa trẻ thật tử tế. - Bà Mann vừa nói vừa chùi mắt trái bằng góc chiếc tạp dề của mình.
- Dù đã trao giải thưởng mười bảng Anh và những cố gắng to lớn của Trại tế bần, - ông Bumble nói, - nhưng vẫn không thể tìm ra cha đứa trẻ cũng như họ tên bà mẹ quá cố của nó.
Bà Mann rất ngạc nhiên, hỏi sau một hồi suy nghĩ:
- Nhưng làm thế nào mà nó lại có một họ được nhỉ?
- Chính tôi đã nghĩ ra đấy chứ. - Ngài thanh tra vừa nói vừa vươn thẳng mình rất tự hào.
- ông ư, thưa ngài Bumble?
- Chính tôi đấy, bà Mann ạ. Tôi đặt họ cho lũ trẻ tìm thấy được theo thứ tự chữ cái abc, đứa gần đây đến chữ S, tôi đặt cho nó họ Swubble, và đứa này đến chữ T, tôi đặt là Twist. Những đứa tiếp theo là Unwin, Vilkent và tiếp tục cho đến chữ Z. Khi đến chữ cái này, tôi làm lại từ đầu bảng chữ cái.
- ông đã nghĩ kỹ thật đấy. - Bà Mann nói.
- Đúng vậy, - ông thanh tra nói vẻ mãn nguyện về lời khen này. Uống hết cốc rượu, ông ta tiếp lời.
- Bây giờ Oliver quá lớn để ở lại đây, hội đồng đã quyết định cho nó quay về trại và tôi đến đây để tìm nó. Dẫn nó ra đây cho tôi!
- ông sẽ gặp nó ngay thôi. - Bà Mann nói và rời khỏi phòng. - Trong lúc đó, Oliver đã được cọ rửa sạch lớp cáu ghét bám đầy mặt đầy tay, và được đưa ngay vào gian phòng ông Bumble đang ngồi.
- Oliver, hãy chào ngài đây. - Bà Mann nói.
Oliver kính cẩn cúi rạp mình chào ông Bumble.
- Cháu có muốn đi cùng với ta không, Oliver?
- Bà Mann không đi cùng với cháu ạ? - Cậu bé Oliver tội nghiệp hỏi.
- Không, không thể được, nhưng thỉnh thoảng bà ấy sẽ đến thăm cháu..Oliver cảm thấy nhẹ nhõm khi rời xa bà Mann nhưng dù còn rất nhỏ, em cũng đủ ý thức để giả vờ rất buồn rầu. Chẳng khó khăn lắm đối với đứa trẻ tội nghiệp để làm rơi nước mắt. Cái đói cùng những đòn roi mới nhận được tỏ ra thật có ích khi người ta muốn khóc và Oliver đã làm điều đó theo cách tự nhiên nhất.
Bà Mann hôn thằng bé và cho nó cái đáng giá hơn nụ hôn là một lát bánh mì phết bơ để nó không có vẻ quá đói khát khi đến Trại tế bần. Oliver được ông Bumble đưa ra khỏi nơi đáng sợ này, nơi mà không bao giờ có một lời nói hay một ánh mắt yêu thương tô điểm cho những năm tháng ấu thơ buồn bã của nó. Tuy nhiên, nó cũng nức nở khóc khi cánh cửa khép lại sau lưng, bởi vì dù những người bạn đồng hành bé nhỏ bất hạnh mà nó rời xa có khốn khổ đến mấy, đó cũng là những người bạn duy nhất nó từng quen biết. Lần đầu tiên nó cảm thấy thật đơn độc trên thế giới này.
Oliver bước qua ngưỡng cửa Trại tế bần chưa đầy mười lăm phút, và chỉ mới nuốt xong miếng bánh thứ hai thì ông Bumble quay lại bảo nó rằng hôm đó là ngày họp hội đồng và nó phải đến đấy trình diện.
Oliver, người chưa từng có một ý tưởng cụ thể nào về cái được gọi là hội đồng, rất đỗi ngạc nhiên về cái tin đó, không biết là mình nên cười hay nên khóc. ông Bumble cầm gậy đập nhẹ lên đầu nó để nó chú ý và đập cái nữa lên lưng để nó nhanh nhẹn lên. ông ta ra lệnh cho nó đi theo và đưa nó vào một gian phòng quét vôi trắng có khoảng một chục ngài to béo đang ngồi quanh một chiếc bàn. Một ông thân hình mập mạp béo tốt, có bộ mặt tròn và ửng đỏ, ngồi trong một chiếc ghế bành được kê cao hơn những ghế khác.
- Chào hội đồng đi! - ông Bumble nói.
Oliver chùi hai ba giọt nước mắt và cúi chào.
- Cậu bé, họ của cháu là gì? - ông ngồi trong chiếc ghế bành hỏi.
Oliver sợ hãi khi nhìn thấy nhiều ông đến như vậy nên cứ câm lặng. ông Bumble lại nện lên lưng cậu bé một lần nữa khiến nó bật khóc, nó liền trả lời rất khẽ bằng một giọng run rẩy. Thế là một ông mặc áo gilê trắng nói rằng thằng bé này ngu ngốc, cần có biện pháp tuyệt vời để mang lại cho nó một chút tự tin và để nó thoải mái!
- Hãy lắng nghe ta, cậu bé, - ngài chủ tịch nói.
- ta cho rằng cháu biết là mình mồ côi.
- Thế là thế nào ạ? - Thằng bé đáng thương hỏi.
- Thằng bé này quả là ngu ngốc, tôi dám chắc điều đó. - ông mặc áo gilê trắng quả quyết nói..- Suỵt! - ông nói đầu tiên tiếp lời. - Cháu biết rằng cháu không có cả bố lẫn mẹ và cháu được nuôi nấng bằng chi phí của giáo khu chứ?
- Vâng, thưa ngài. - Oliver trả lời và cay đắng nức nở.
- Tốt! - ông có gương mặt đỏ đắn nói. - Cháu ở đây để được giáo dục và học một nghề có ích.
Kể từ ngày mai, cháu sẽ bắt tay vào làm việc.
Oliver quay lại Trại tế bần như vậy đó. Nó ngủ trên một chiếc giường rất cứng trong căn phòng lớn của trại.
Phòng ăn của bọn trẻ là một phòng lớn lát gạch, phía cuối phòng có đặt một cái chảo, nơi người phụ trách trại đeo tạp dề và được một bà già phụ giúp phát cháo yến mạch vào giờ ăn.
Mỗi đứa trẻ được nhận một tô nhỏ yến mạch, không bao giờ hơn, trừ những ngày lễ có thêm một mẩu bánh mì. Những cái bát này chẳng bao giờ cần lau rửa, những đứa trẻ đã dùng thìa vét nhẵn nhụi bát của mình cho đến khi nó lại sáng loáng lên.
Thường thường, trẻ con ăn rất ngon miệng, Oliver Twist và những người bạn của em phải chịu đựng sự hành hạ của cái đói trong ba tháng. Rốt cục thì cái đói này khiến một cậu bé lớn hơn so với tuổi của mình và không quen với cảnh sống như vậy bị thác loạn đến mức em nói cho bạn bè hiểu rằng nếu không được thêm một suất yến mạch mỗi ngày, e rằng một đêm nào đó em sẽ ăn sống nuốt tươi cậu bé nằm chung giường với em, cậu này ít tuổi và yếu đuối. Sau đó, chúng thảo luận, chúng bốc thăm để biết bữa tối nay ai phải đi xin trưởng trại thêm một khẩu phần nữa. Cái thăm rơi vào Oliver Twist.
Tối đến, những đứa trẻ ngồi vào chỗ của mình, cuối bữa ăn, Oliver tiến gần đến trưởng trại:
- Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ.
Trưởng trại, một người đàn ông béo tốt, tái mặt đi sửng sốt. ông ta nhìn nhiều lần thằng bé nổi loạn, sau đó ông dựa người vào chảo cho vững.
Bà già giúp việc ngẩn người kinh ngạc và bọn trẻ thì ngẩn người vì kinh hãi.
- Thế nào? - Trưởng trại nói, giọng lạc hẳn đi.
- Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ. -Oliver trả lời.
Trưởng trại vụt vào đầu Oliver một nhát muôi, siết chặt nó trong tay và hét to gọi ông Bumble.
Hội đồng đang trong buổi họp long trọng, thì ông Bumble thở hổn hển, chạy vội vào phòng, nói với ngài chủ tọa:
- Thưa ngài Limbkins, tôi xin lỗi ngài. Oliver lại xin thêm cháo..Thật là sửng sốt. Sự ghê sợ hiện lên mọi gương mặt.
- Nó lại xin thêm nữa à? - Ngài Limbkins nói.
- Tôi phải hiểu rằng nó lại xin thêm thức ăn nữa ư?
- Vâng, thưa ngài. - ông Bumble trả lời.
- Đứa trẻ này rồi ra sẽ khiến người ta phải treo cổ nó. - ông mặc áo gilê trắng nói. - Đúng vậy, đứa trẻ này rồi sẽ bị treo cổ.
Sau khi phạm cái tội không thể tha thứ được là xin thêm yến mạch, Oliver bị giam tám ngày trong ngục tối chật hẹp, nơi mà lòng nhân từ và sự khôn ngoan của hội đồng đưa nó vào. Em khóc cay đắng suốt nhiều ngày liền và khi đêm đến, em đặt đôi bàn tay nhỏ bé của mình lên mắt để khỏi nhìn thấy bóng đêm và thu mình trong một góc cố thiếp đi.
Một ngày kia, người ta quyết định giao em cho một thợ nạo ống khói, người đã từng có tiếng làm chết nhiều cậu học việc của mình.
Mọi thủ tục đã làm xong thì viên pháp quan, người phải điền chữ ký cuối cùng, cảm thấy ít nhiều băn khoăn khi nhìn thấy nét mặt hốc hác của Oliver, em thực sự hãi hùng vì viễn cảnh phải sống dưới mệnh lệnh của ông thợ nạo ống khói.
Oliver Twist được gửi trả lại Trại tế bần và ông Limbkins thốt lên khi trông thấy em quay lại:
- Thằng bé sẽ bị treo cổ thôi, tôi đoán chắc điều đó.
- Chúng ta phải làm gì với thằng bé này đây?
- Mọi người trong hội đồng hỏi lẫn nhau. - Giá như chúng ta có thể đuổi nó đi xa làm thủy thủ.
Nhưng chẳng có một viên thuyền trưởng nào muốn nhận nó.
Cuối cùng, Oliver Twist cũng được một ông bán quan tài chấp nhận, ông Sowerberry, người muốn dạy nghề nghiệp cho nó.Còn tiếp!